Hủ tíu, một món ăn Việt đậm đà với sự thịnh vượng và biến đổi khí hậu

by chiennguyen
0 comment

Các món bún gạo, một đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long, kể về câu chuyện của những thay đổi kinh tế và môi trường trong khu vực. Liệu Việt Nam có trở thành nạn nhân từ sự ham muốn của chúng tôi?

Biến thể địa phương của món bún này, hủ tíu, được phục vụ ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Ảnh: Thy Khue Ly

Trong một chuyến thăm vào tháng trước ở thành phố Mỹ Tho của tỉnh Tiền Giang, một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, tôi tìm thấy một nhà hàng ven sông phục vụ các đặc sản địa phương, một món ăn gọi là hủ tíu. Đó là một món súp ngon, nhiều sợi bún dài co giãn và đặt lên trên là những con tôm nuôi tại địa phương.

Hai thành phần của hủ tíu đã đưa các vùng đồng bằng đến sự thịnh vượng một cách đáng kể. Ở các tỉnh như Tiền Giang và lân cận Bến Tre, tiến về phía Biển Đông, cảnh quan được đan lại với nhau bằng những cánh đồng lúa phì nhiêu và ao nước lợ đầy ắp tôm. Sự chuyển đổi này đã diễn ra chỉ trong một thế hệ.

Cuối năm 1990, 15 năm sau khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, đất nước phải đối mặt với các mối đe dọa của nạn đói, gạo được chia khẩu phần nghiêm ngặt. Bây giờ, nhờ chính sách “gạo lần đầu” của chính phủ, nhiều nông dân có được ba vụ một năm, gồm cả một vụ trong mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Thu nhập từ thu hoạch năm nay đã phá vỡ tất cả các kỷ lục trước đó. Năm ngoái, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, với 90% số nông sản xuất khẩu là từ đồng bằng sông Cửu Long.

Một trong những cánh đồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Gần đó, Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động để làm cho sản xuất lúa bền vững hơn và chống chịu được muối trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Ảnh: V Meadu

Trong khi đó, bị cám dỗ bởi lợi nhuận lớn thu được từ nuôi trồng thủy sản trong vài thập kỷ qua, nhiều nông dân đã chuyển đổi ruộng sang nuôi tôm. Trong các làng của đồng bằng, nhà tranh đã được thay bằng các tòa nhà mới với những bức tường xi măng và mái kim loại, ngay cả những ngôi biệt thự hào nhoáng cũng thuộc về những người nuôi tôm.

Trong khi những người mua gạo lớn nhất của Việt Nam là các quốc gia châu Á khác, thì thực khách Mỹ và châu Âu chủ yếu thúc đẩy nhu cầu đối với tôm, mà Việt Nam đã giành được 4 tỷ USD năm ngoái. Người Mỹ ăn khoảng 4 pound tôm mỗi người một năm, và năm ngoái lần đầu tiên Hoa Kỳ thay thế Nhật Bản như thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Sự thịnh vượng và sự giàu có đến từ khẩu vị thức ăn nước ngoài này đang là nguy cơ trở thành nạn nhân cho sự thành công của chính mình. Ngày càng nhiều các nhà khoa học và nhà kinh tế nói rằng nếu không có những thay đổi lớn trong cách sử dụng đất, sự bùng nổ là không bền vững. Và nước lợ trong những ao nuôi tôm đã gợi ý lý do. Áp lực không ngừng để kiếm được nhiều tiền hơn và thúc đẩy phát triển làm tăng cường biến đổi khí hậu và tác động của nó ngày càng tồi tệ.

Sự thịnh vượng ở đồng bằng sông Cửu Long được thể hiện qua sự thường xuyên xây cất của những ngôi nhà lớn. Ảnh: MookE

Đồng bằng sông Cửu Long dễ bị tổn thương bởi xâm lấn biển hơn bất kỳ khu vực nông nghiệp nào khác trên thế giới. Biến đổi khí hậu là một thực tế rõ ràng. “Chúng tôi đang nhìn thấy mưa nhiều vào mùa mưa, lũ lụt tồi tệ hơn, và mưa ít hơn trong mùa khô, hạn hán thì nghiêm trọng hơn”, Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm phát triển tài nguyên nước bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu tại Hà Nội và trước đây là đại diện của Việt Nam trên các quốc gia Ủy hội sông Mekong cho biết.

Ở các tỉnh như Tiền Giang, Bến Tre, ông cho biết, nước mặn từ biển đang dần di chuyển vào đất liền, đe dọa đến sự màu mỡ của đất. Trong khi đó các vụ bùng phát nhiệt độ cực đoan đang trở nên dài hơn và mạnh hơn. Theo đài khí tượng tỉnh Bến Tre, nhiệt độ trung bình đã tăng 0.5⁰C so với năm 1977, năm bắt đầu ghi chép sổ sách.

Độ mặn ngày càng tăng của đất trồng lúa cũng là một vấn đề do con người tạo ra. Ông Andrew Wyatt là đại diện Việt Nam của Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên và là một chuyên gia về sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Trong văn phòng của ông ở thành phố Hồ Chí Minh, ông chiếu một hình ảnh Google Earth của đồng bằng trên một màn hình lớn, hiển thị cho tôi những thay đổi xảy ra dọc theo dải ven biển của Bến Tre. Trong một số khu vực có một vùng rừng ngập mặn màu xanh rộng hàng trăm bãi – một bộ đệm quan trọng nhưng mỏng manh – chống lại triều cường từ biển phía nam Trung Quốc và các dòng chảy thượng nguồn của muối. Nhưng khi ông di chuyển con trỏ về phía nam, ông đã chỉ ra nhiều khu vực rừng ngập mặn rộng lớn đã mỏng đi hoặc biến mất.

Ông dừng lại tại một điểm để phóng to hơn về một phần của tỉnh Sóc Trăng. Không còn gì ở đó, chỉ là một dải rừng phân mảnh. Trên phía đất liền là một bàn cờ khổng lồ của các ao nuôi tôm hình chữ nhật với quy mô công nghiệp, các thiết bị sục khí phun trắng có thể nhìn thấy rõ ràng trong hình ảnh vệ tinh. “Ban đầu khu vực này trồng lúa, nhưng trong những năm gần đây nó được chuyển sang nuôi tôm”.

Trang trại tôm ngoài bờ biển Việt Nam. Ảnh: -JvL-

Vì nông dân cắt giảm diện tích rừng ngập mặn để làm nơi nuôi trồng thủy sản, nước dâng do bão và bão ngày càng thường xuyên có thể làm ngập bờ đê mà được sử dụng để chắn ngập mặn cho các vùng nông nghiệp. Trong một số bộ phận của vùng đồng bằng, bờ biển hiện đang xâm lấn hơn 100 mét (109 yards) một năm.

Kênh mương, đê bao, cống, một số trong chúng có niên đại từ thời Pháp thuộc, không còn giữ được nước mặn để bảo vệ những cánh đồng lúa. “Những cấu trúc điều khiển độ mặn đã không còn làm việc”, ông nói. “Các cửa cống đã được mở vĩnh viễn, và bởi vì chúng đã không còn sử dụng, chúng đã rỉ sét tại chỗ”.

Không có gì ngạc nhiên khi nhiều nông dân đã chuyển sang nuôi tôm. Không chỉ nuôi những loài có thể phát triển mạnh trong nước mặn, nông dân đang ngày càng chuyển sang nuôi các loài chịu mặn hơn, chẳng hạn như tôm chân trắng. Thu nhập từ nuôi tôm cao hơn một diện tích dùng trồng lúa tương đương từ năm đến bảy lần. Theo Ngô Thị Phương Lam, một chuyên gia nông nghiệp tại Đại học Quốc gia Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù chi phí ban đầu cao, sự cám dỗ của lợi nhuận đã tiếp tục chứng minh việc này không thể cưỡng lại.

Từ một quan điểm môi trường, tất cả những diễn biến này đã tạo ra một vòng luẩn quẩn của những áp lực. Độ mặn đe dọa sản lượng lúa. Bị ảnh hưởng mạnh bởi các nhà bán lẻ và các nhà quảng cáo, nông dân lo lắng để có sản lượng kịp thời, họ làm bẩn nguồn cung cấp nước ngọt vì sử dụng hoang phí thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp. (Hồ Văn Chiến của Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam tại Tiền Giang gọi đây là “mua bán tình cảm”)

Những cách làm này không chỉ không bền vững, nó cũng đồng thời đe dọa doanh thu xuất khẩu. Gạo bị lệnh cấm nhập khẩu tạm thời của Trung Quốc và Nhật Bản do ô nhiễm, và người trồng lúa của Mỹ đang lên án vì họ nói là gạo từ Việt Nam không đủ tiêu chuẩn kiểm tra của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược.

Trong khi đó, sự bùng nổ của tôm cũng chính là mối đe dọa trong các chu kỳ sản xuất tôm. Thâm canh, đặc biệt là các tôm chân trắng, dẫn đến số lượng quá đông đúc trong ao, bài tiết chất thải nhiều hơn, tăng nguy cơ mắc bệnh, sử dụng nhiều hóa chất, thức ăn chăn nuôi và thuốc kháng sinh, cùng với việc kiểm soát chất lượng cẩu thả.

Người nuôi tôm ở Việt Nam đang dần chuyển sang nuôi tôm chân trắng, loài chịu được muối cao hơn tôm sú. Ảnh: Jeff Butterworth

Trong năm 2013, bệnh tràn qua các trại nuôi tôm ở nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam, và kết quả là sản xuất giảm làm cho giá xuất khẩu tăng vọt. Chuỗi nhà hàng Mỹ Red Lobster báo cáo giá phải đóng cho tôm nhập khẩu tăng 35%. Mặc dù bản thân bệnh không phải do biến đổi khí hậu gây ra, Wyatt nói, nhiệt làm cho tôm dễ bị tổn thương hơn. “Nhiệt độ nước cao gây áo lực cho tôm, và nhiệt độ cực cao đã gây tử vong hàng loạt”, ông nói.

Chính phủ nhận thức sâu sắc về mối đe dọa của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường nhưng nhu cầu về phát triển tạo ra một cuộc xung đột lớn, Đào Trọng Tứ cho biết. Ông giải thích là vì 13 tỉnh của đồng bằng đã lập ra mục tiêu kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt để thu hút đầu tư mới và đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy sự phát triển của nhiều lúa và tôm hơn. Theo thời gian đại dương tiếp tục xâm lấn dần. Hầu hết diện tích đồng bằng sông Cửu Long cao không hơn năm feet so với mực nước biển, có đến một triệu người có khả năng bị mất nhà cửa và sinh kế của họ vào giữa thế kỷ này.

Liệu người tiêu dùng có thể giúp cho các ngành công nghiệp tôm Việt bền vững hơn? Các tổ chức quốc tế như Liên minh Rainforest đã thực hiện bước tiến lớn trong việc xác nhận phát triển bền vững và “thương mại công bằng” cà phê . Hội đồng Quản lý biển đã chứng nhận hơn 20.000 sản phẩm hải sản là “cá ăn.” Bây giờ các phong trào chứng nhận đang chuyển sự chú ý sang nuôi trồng thủy sản.

Các Hội đồng Quản lý Nuôi trồng thủy sản , được tạo ra bởi WWF (trước đây là Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới) và Sáng kiến Thương mại bền vững Hà Lan, hiện đang trong quá trình xác nhận trang trại tôm Việt đầu tiên, và không ít chúng  đã được chứng nhận bởi GlobalGap, một tập đoàn của các nhà bán lẻ châu Âu. Khi tôm mang con tem này chính thức đặt chân đến thị trường Mỹ và châu Âu, nhận thức của người tiêu dùng có thể bắt đầu cung cấp thêm động lực cho các hình thức bền vững hơn của sản xuất tại Việt Nam.

Khi tôi trở lại New York, tôi tìm thấy một công thức cho hủ tíu và đi xuống phần nhỏ của khu phố được gọi là Sài Gòn Nhỏ để mua tôm nhập khẩu và đúng loại mì gạo sợi dài co giãn. Nhưng tôi tự hỏi, khi tôi chuẩn bị các món ăn cho trẻ em của tôi, liệu tôi có nên phục vụ nó với một cảnh báo – rằng nếu một ngày chúng muốn sửa chữa nó cho con em của mình, chúng có thể có một thời gian khó hơn việc tìm kiếm các thành phần.

                                                                                                            Nguồn: Theguardian.com

You may also like

Leave a Comment